Phải chăng Chính phủ Việt Nam nợ người dân một lập trường trước Trung Quốc?

Có thể nhiều người Việt đang rất hân hoan trong niềm vui hy vọng khi biết rằng Hoa Kỳ đã thể hiện lập trường rõ ràng ở Biển Đông. Trong đó, Hoa Kỳ tuyên bố phủ nhận hầu hết các yêu sách cũng như lên án các hành động bá quyền của Trung Quốc trên vùng biển này, đồng thời thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với các quốc gia chịu sự đe dọa trong khu vực. Hai ngày sau khi đưa ra bản Tuyên cáo này, Ngoại trưởng Hoa Kỳ – Mike Pompeo cũng đã khẳng định rằng Hoa Kỳ “sẽ sử dụng tất cả những biện pháp có thể để trợ giúp các quốc gia chịu sự xâm lấn của Trung Quốc”. Tất cả những động thái này, trùng hợp thay, lại được đưa ra đúng vào dịp Việt Nam và Hoa Kỳ đang hân hoan mừng kỷ niệm 25 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao với những thành tựu rực rỡ và tương lai hợp tác tươi sáng. Đối với người Việt, phần nào cho thấy sự nhiệt thành của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, ít nhất là trong việc hỗ trợ Việt Nam chống Trung Quốc bành trướng ở biển Đông. 

Dù không có ý định tạt một “gáo nước lạnh” vào “bầu không khí” vui tươi đó, người viết chỉ muốn đưa một góc nhìn cá nhân về giá trị của lập trường đối với Việt Nam; và về thời điểm tuyên cáo, trong sự soi chiếu đến đặc trưng cơ bản của quan hệ quốc tế. Rằng, tình hữu hảo, dù là dựa trên điều gì cũng vẫn chỉ là câu chuyện “đãi môi” trong lĩnh vực chính trị và quan hệ quốc tế, vấn đề cốt yếu là “với ai”, “khi nào”, và “lợi ích gì”.

Sự thiếu vắng một lập trường quốc gia trong việc “định nghĩa” Trung Quốc

Giả định rằng quốc gia Việt Nam đang ở trong một cuộc tranh đấu, còn gì đáng mừng hơn khi có ai đó tuyên bố ủng hộ chúng ta, nhưng chúng ta sẽ tranh thủ sự ủng hộ đó như thế nào khi cuộc tranh đấu của chúng ta lại thiếu vắng một lập trường nhất quán. Việc không có một lập trường, nhưng lại mừng vui trên lập trường của người khác không hẳn gây hại gì. Tuy vậy, điều đó sẽ phần nào thể hiện sự bị động và dễ bị lệ thuộc của chúng ta ngay trong cuộc chiến  – như là định mệnh của mình.

Đối với rất nhiều người Việt, hành động tuyên cáo lập trường cho thấy Hoa Kỳ đang có những bước đi mới, rõ ràng hơn, và nhiều “ánh sáng” hơn trong công cuộc “chống Trung”, và sẽ có thể có những ảnh hưởng tích cực nhất định đến phong trào “chống Cộng”. Điều này có thể đúng, nếu như Hoa Kỳ nhiệt tâm với các tuyên bố của mình để những cam kết không chỉ nằm trên giấy. 

Cứ cho rằng, lập trường của Hoa Kỳ là chắc chắn (nhiệt tâm thực hiện), thì việc chúng ta thiếu một lập trường nhất quán sẽ tận dụng được sự trợ giúp của Hoa Kỳ ra sao? 

Chúng ta không có một lập trường rõ ràng trong cách cư xử với người láng giềng phương Bắc. Điều này dẫn đến việc các đụng độ, va chạm làm hại ngư dân bám biển của ta vẫn xảy ra, nhưng lúc thì được miêu tả do “tàu lạ”, lúc lại do “tàu nước ngoài” (theo truyền thông trong nước). Sự thiếu minh bạch trong các sự kiện Trung Quốc đánh chiếm các đảo ngoài khơi của Việt Nam, cho đến các phát ngôn với giọng điệu thay đổi theo “thời tiết” của đại diện cơ quan ngoại giao.

Để minh định rõ hơn về sự thiếu vắng một lập trường như đang trình bày, người đọc có thể tham khảo bình luận đầu tiên của Bộ Ngoại giao Việt Nam về Tuyên cáo của Hoa Kỳ, do phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng nêu ra ngày 15 tháng 7 như được Báo Tuổi trẻ đưa tin ở đây. Và, hãy thử xem xét, bình luận này giống quan điểm của một nước ven biển đang bị xâm hại quyền và lợi ích nghiêm trọng, hay giống quan điểm của một quốc gia ở sa mạc Saharah hơn?

Việc không “định nghĩa”, hoặc thiếu sự rõ ràng trong các hành xử với Trung Quốc, cũng đồng nghĩa việc chúng ta đang không rõ ràng về lợi ích của chính mình. Một khi lợi ích bản thân cũng không xác định được thì có thể đứng trên căn cứ nào để tính đến chuyện bảo vệ. Và khi đó, dù một bên thứ ba nào đó sẵn sàng làm “bệ đỡ” thì chúng ta liệu có đủ khôn ngoan để đặt đôi chân của mình lên hay không? 

Đó là giả định cứ cho rằng Hoa Kỳ sẽ tận tâm với Tuyên cáo của mình, và Việt Nam, dù thiếu vắng một lập trường cố định, vẫn sẽ hưởng lợi kiểu “không bổ trong cũng bổ ngoài”. Nhưng giả định này chỉ có thời gian mới đưa ra câu trả lời, và chúng ta phải chờ đợi.

Có phải Trung Quốc mới hành xử kiểu “hổ báo cáo chồn” từ năm ngoái, hay Tòa trọng tài quốc tế mới ra phán quyết về vụ kiện của Philippines từ tháng trước?

Rõ ràng là những hành xử thô bạo nhằm thay đổi tình trạng tự nhiên của các thực thể biển, cùng những vi phạm trắng trợn pháp luật quốc tế của Trung Quốc không phải vừa mới xảy ra, và Vụ kiện của Philippines cũng đã có phán quyết từ năm 2016. Nhưng tại sao Hoa Kỳ đến nay mới đưa ra lập trường rõ ràng bác bỏ các tuyên bố và hành xử bất hợp pháp của Trung Quốc? Chẳng lẽ Mỹ cần đến hơn một thập kỷ để xác định, liệu rằng Trung Quốc có đang phá huỷ các giá trị của pháp luật và trật tự quốc tế mà Mỹ muốn, hoặc sẽ bảo vệ hay không?

Chắc chắn là không. Nếu Hoa Kỳ lấy việc bảo vệ các giá trị là trụ cột để duy trì an ninh, ổn định trật tự khu vực và quốc tế là sứ mệnh của mình thì họ, có lẽ, đã phải hành động ngay khi các giá trị đó bị xâm phạm. Nhất là trong trường hợp Philippines là đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. 

Làm rõ những câu hỏi này có thể đưa đến một kết luận rằng, Tuyên bố về lập trường của Mĩ đối với các tuyên bố của Bắc Kinh ở biển Đông chỉ là một động thái cho thấy Hoa Kỳ sẽ có thái độ cứng rắn để bảo vệ lợi ích của mình. Trong bối cảnh Trung Quốc đã không còn “diễn” nữa, và Hoa Kỳ cũng không còn lựa chọn nào khác. Việc xuống nước của Hoa Kỳ trong tình trạng căng thẳng kéo dài như hiện nay sẽ cho thấy sự đánh mất (hoặc từ bỏ) vai trò lãnh đạo thế giới của mình. Khẩu hiệu bảo vệ pháp luật và trật tự quốc tế; an ninh, ổn định khu vực; và tự do an toàn hàng hải chỉ là “lý do” cho cái “mục đích” cạnh tranh lợi ích các nước lớn.

Chỉ ra như vậy không phải là để chê trách Hoa Kỳ (vốn dĩ các quan hệ quốc tế sẽ phải thay đổi xung quanh trục “lợi ích” như vậy), mà để thấy rằng, lợi ích của Hoa Kỳ hay bất cứ bên thứ ba nào có thể trùng khớp với mục tiêu của chúng ta ở một đoạn, một điểm nào đó. Nhưng để tận dụng được sự trùng khớp đó, chúng ta cần có chiến lược chủ động, rõ ràng.

Hoa Kỳ có phải “người lính gác” nhiệt thành của pháp luật và trật tự quốc tế?

Tạm giả định (theo quan điểm của những người chống Trung Quốc cực đoan) rằng, Trung Quốc là kẻ thù, còn Mỹ, không những là đồng minh chống Trung Quốc mà còn là “người hùng” bảo vệ các giá trị của pháp luật và trật tự quốc tế. Vậy, hãy xem kẻ thù nói gì về đồng minh của chúng ta, và liệu rằng những nhận định đó có phần nào là sự thật.

Theo thông tin được đưa tại trang facebook của Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông qua phát ngôn viên Triệu Lập Kiên đã đáp trả mạnh mẽ Tuyên cáo lập trường mới của Mỹ. Theo đó (lược trích): “Tuyên bố của Mỹ trái với cam kết công khai không giữ lập trường về chủ quyền Nam hải của Chính phủ Mỹ. Phía Trung Quốc không hề tìm kiếm xây dựng “Đế quốc biển”. Ngược lại, Mỹ từ chối gia nhập “Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển”, thường xuyên “rút khỏi các tổ chức quốc tế và huỷ cam kết” trên trường quốc tế. Đối với luật quốc tế, hợp thì sử dụng, không hợp thì bỏ”.

Người viết sẽ không phân tích vấn đề liệu rằng Mỹ đã có cam kết như vậy với Trung Quốc hay không. Vì, đây là vấn đề tranh cãi, cần bằng chứng để xác thực (cũng như hiện nay Trung Quốc cáo buộc Mỹ cố tình “bóp méo” phát biểu của Ngoại trưởng Trung Quốc tại Hội nghị Asean), và nó cũng là vấn đề của Mỹ, dựa trên lợi ích của Mỹ. Do đó, dù có chứng minh được là Mỹ đã có quan điểm như vậy thì cũng là điều bình thường trong quan hệ quốc tế.

Về vấn đề tuân thủ, tôn trọng pháp luật quốc tế thì sao? Đáng tiếc rằng, những khẳng định của phía Trung Quốc lại là sự thật, dù rằng đó không hẳn thể hiện bản chất của Chính phủ Mỹ, nhưng đó đúng là phần nào thái độ của Mỹ đối với hệ thống luật pháp quốc tế. Từ việc từ chối thực thi phán quyết của Tòa án quốc tế trong vụ kiện của Nicaragua, đã làm nên một ví dụ điển hình cho sự kém hiệu quả của các thiết chế quốc tế dưới sức mạnh của những cường quốc. Cho đến gần đây, là hàng loạt những hành động rút ra khỏi các hiệp ước quốc tế, hay các tổ chức quốc tế, như: Thỏa thuận hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp ước Paris về khí hậu, Thỏa thuận hạt nhân với Iran, Tổ chức Văn hoá và giáo dục Liên hợp quốc, Uỷ ban nhân quyền Liên hợp quốc. Gần đây nhất, Hoa Kỳ đang tiến hành các thủ tục cần thiết để  rời khỏi Tổ chức Y tế thế giới, sau khi Tổng giám đốc tổ chức này từ chối từ chức theo đề nghị của Tổng thống Mỹ, Donald Trump. 

Mặc dù tồn tại một sự thật rằng, một số định chế quốc tế hiện nay đã tỏ ra không hiệu quả và cần phải được thay đổi. Nhưng, việc đơn phương rút ra khỏi các định chế đó cũng phần nào thể hiện sự thiếu tôn trọng của Mỹ đối với hệ thống pháp luật quốc tế hiện nay. Và đó cũng có thể được xem như biểu hiện của bá quyền nước lớn vậy.

Đối với các tập quán quan hệ quốc tế, rồi tình hữu hảo đồng minh. Người Việt, đặc biệt là người miền Nam trước năm 1975, liệu mấy ai không còn nhớ Hoa Kỳ đã “đi đêm” với Trung Quốc “trên lưng” Việt Nam Cộng Hoà để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa như “cưỡi ngựa hái hoa” như thế nào. Người miền Bắc chắc cũng phong phanh đâu đó rằng “Trung Quốc chỉ giữ đảo hộ ta mà thôi”, nhưng sự thật thì họ đã giữ hộ bao lâu, và đang tuyên bố, hành động như thế nào.

Xin được nhấn mạnh rằng, chỉ ra những điều này không nhằm hạ thấp nỗ lực của Hoa Kỳ, hay quan hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Nhưng để nhận ra rằng, bất cứ bên thứ ba nào cũng sẽ chỉ hành động dựa trên lợi ích của chính họ mà thôi, và họ không có bất cứ một nghĩa vụ bắt buộc nào đến sự an nguy của một quốc gia khác, trừ khi hệ thống pháp luật và chính trị quốc tế có sự thay đổi khác đi. Đó là thực tế. 

Điều mà những nước nhỏ, và đặc biệt như Việt Nam phải ở trong một vị thế địa chính trị nhạy cảm, cần phải có chính sách chiến lược và mục tiêu của riêng mình, để nhận ra và tranh thủ bất cứ thuận lợi nào mà các bên thứ ba mang đến trong lợi ích của họ. Bên cạnh đó, cũng cần phải khôn ngoan để không dễ dàng trở thành con “tốt thí” bởi bất cứ bên nào. 

Điều kiện nào để “lập trường” của Mỹ không phải chỉ là những tuyên cáo trên giấy đối với Việt Nam?

Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã được tái thiết và phát triển 25 năm, đã đạt được những đột phá quan trọng, từ kẻ thù trong chiến tranh đến nay đã hình thành quan hệ đối tác toàn diện. Đó là thành tựu quan trọng mang lại lợi ích to lớn, đặc biệt cho phía Việt Nam. Nhưng làm sao có thể đảm bảo sự nhiệt tâm của Mỹ trong “lập trường” của mình, đặc biệt đối với Việt Nam? Câu trả lời chỉ có thể đến từ sự phát triển trong quan hệ của người dân hai nước. Suy cho cùng, một quan hệ, dù là đối tác hay đồng minh đều cần phải dựa trên những giá trị bền vững thì các thoả thuận mới có thể được thực thi một cách thiện chí, và được đảm bảo lâu dài. Một quan hệ bền chặt sẽ không chỉ đến từ những thoả thuận của hai nhà nước, mà nó phải được sự đồng thuận và hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau giữa người dân hai quốc gia. Chỉ khi người Mỹ đồng cảm với người Việt Nam, hay nhân dân các nước đang chịu đe dọa trực tiếp bởi Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á, thì khi đó, chính phủ Mỹ với tận tâm với những chính sách bên ngoài của mình, ngoài những tính toán về mặt lợi ích.

Hai mươi lăm năm, người Mỹ biết và nghĩ gì về người Việt, và ngược lại? Có lẽ là không nhiều, ngoài những quan hệ làm ăn kinh tế. Tuy vậy, đã có những chỉ dấu cho thấy hai nước có thể đẩy mạnh quan hệ đối tác hơn nữa, bằng việc triển khai các hoạt động xã hội như hàn gắn vết thương chiến tranh, hay các chương trình trao đổi, giao lưu về văn hoá, giáo dục, xã hội khác sẽ giúp người dân hai nước hiểu nhau hơn, là gốc rễ cho những giá trị bền vững hình thành. Một trong những dấu hiệu đó là việc hai nước đang đàm phán một thỏa thuận để Mỹ có thể, lần đầu tiên, gửi Peace Crops volunteers (Đội tình nguyện vì hòa bình) đến Việt Nam để thực hiện sứ mệnh gắn kết nhân dân hai nước – một hoạt động đòi hỏi sự tin tưởng, đặc biệt từ phía chính quyền Việt Nam.

Đứng trước bất cứ cơ hội nào để phát triển đất nước một cách tự chủ và độc lập, ai lại không thể vui mừng, nhưng hãy nên vui trên lập trường nhất quán của riêng mình. Cá nhân người viết chỉ thực sự vui khi đọc được những bản tuyên bố rõ ràng từ nhà nước của chúng ta. Trong đó, ngư dân Việt Nam không bao giờ bị “tàu lạ” đâm, và cũng không phải bị tấn công bởi “tàu nước ngoài” nào. Dựa  trên một chính sách nhất quán như vậy, thì những tuyên bố, dù chỉ là tuyên bố của bất cứ nước nào cũng sẽ có ý nghĩa nhất định đối với chúng ta. Còn không, dù bất cứ bên thứ ba nào, dù nỗ lực ủng hộ đến đâu, vấn đề Trung Quốc đối với người Việt Nam vẫn mãi là “lạ” và không thể rõ ràng. Chúng ta không biết chúng ta đang thoát và sẽ thoát Trung như thế nào, hoặc đang bị Trung Quốc kìm kẹp như thế nào. Và đặc biệt, chúng ta không rõ liệu rằng sự đe doạ dân tộc có đang bị lợi dụng để duy trì một ý (ảo) tưởng nào đó hay không.

Doan Nguyen

Bài viết đã được đăng tại Luật Khoa tạp chí ngày 22/7/2020

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s